top of page

Nhìn Lại Lộ Trình Tâm Qua 3 Năm Tu Học – Livy Cs Leung (Calgary, Canada)

Tháng 10 năm 2012

Phần tóm tắt: Trong quá trình 3 năm tu tập có không ít sự việc đáng để ghi nhận. Hai năm trước, tôi có viết một bài ‘Sự sắp xếp tinh tế’, bài viết này cũng ‘Vi Diệu’, cũng ‘tinh tế’, có thể nói đây là bài tiếp theo, nối tiếp sự ‘Sự sắp xếp tinh tế’ của Sư Tổ. Quá trình trong 3 năm tu tập được chia làm 3 giai đoạn để trình bày.


Giai đoạn 1 - ‘Thời kỳ củng cố’: Vì vướng bệnh nan y, có bạn bè khen ngợi sự mầu nhiệm của pháp môn Vi Diệu Pháp Hành Thiền (VDPHT), tôi tham gia Pháp Môn với tâm trạng ‘cực kỳ nghi ngờ’ và chỉ để thử xem sao. Trong giai đoạn này, được sự hướng dẫn tận tình của Thầy dạy vỡ lòng và các sư huynh sư tỉ, từ tài liệu bài giảng và thực tập mỗi tối, kết quả mò mẫm các vị trí cảm ứng trong lúc tự chữa, tôi có nhận thức sâu sắc về kiến thức và bí quyết trong việc chăm sóc sức khỏe, tạo nên một nền tảng vững chắc. Tuy lúc ngồi thiền và tự chữa bệnh có cảm thấy hiệu quả khá tốt, kết quả việc giúp người khác chữa bệnh có kết quả vi diệu, nhưng tôi vẫn còn ‘nửa tin nửa ngờ’ đối với Pháp Môn. Trong giai đoạn này, sự ấm cúng mà Thầy vỡ lòng và các đồng môn mang đến cho tôi, khiến tôi mãi ghi nhớ và suốt đời khó quên.


Giai đoạn 2 - ‘Thời kỳ thử thách tu thân’: Trong giai đoạn này, mỗi lần theo Thầy Tần Diệp đi hành pháp, sức khỏe đều có vấn đề. Cô Chưởng Môn nói, ra ngoài hành pháp, đôi lúc phải chịu sự thử thách. Riêng tôi, mỗi lần hành pháp đều phải chịu thử thách. May mắn thay, mỗi khi sức khỏe có vấn đề, tôi đều hồi phục nhanh chóng bằng cách tự chữa cho mình. Trong mỗi lần có vấn đề, tôi đều gặp được vài người có tình trạng sức khỏe tương tự cần sự giúp đỡ của tôi. Còn tôi thì áp dụng phương pháp và những vị trí cảm ứng do tôi mò mẫm được để giúp chữa trị cho họ, mỗi lần như thế đều gặt hái kết quả như mong đợi. Làm như thân thể mình là ‘nơi làm thực nghiệm’. Do đó, mỗi khi đi hành pháp mà sức khỏe có vấn đề, tôi đều cho rằng Đức Sư Tổ cho tôi ‘thử thách tu thân’ để có thể nắm vững kỹ thuật chữa bệnh điều thân.


Giai đoạn 3 - ‘Thời kỳ thử thách tu tâm’: Khi Cô Chưởng Môn truyền đạt lời dạy của Tổ, từng nói: ‘Phải tăng thời gian thiền định, trụ trong chánh pháp để phát Huệ, hầu thấy được chân lý’. Sau khi thọ pháp cấp 5, tôi ngồi thiền không cần quan tâm hướng đi của năng lượng, trí óc bắt đầu hoạt động, tôi đã từng suy nghĩ sâu xa về nhiều vấn đề để hiểu rõ đạo lý đích thực của nó. Tuân theo lời dạy của Thầy Cô Chưởng Môn, tôi tu tập từ thực tế cuộc sống, gạt bỏ ‘Danh, Lợi, Tình’, bỏ ‘Tham, Sân, Si’. Trong giai đoạn này, tôi không ăn thịt, sức ăn cũng giảm, với yêu cầu đạt được ‘Thực vô cầu bão, cư vô cầu an’ trong đời sống của mình, đạt được ‘Bất vụ danh lợi, thanh tâm quả dục’ trong tư tưởng, sau đó tiến tới cảnh giới ‘Vô dục vô cầu, vô vật vô ngã’.


Tóm lại, 3 năm nay, tôi tham gia Pháp Môn với tâm trạng ‘Cực kỳ nghi ngờ’, vẫn còn ‘Nửa nghi nửa ngờ’ đối với những hiệu quả ngoài sức tưởng tượng trong giai đoạn điều thân lúc đầu. Sau khi trải qua sự thử thách trong hai phương diện điều thân và điều tâm, tôi có suy nghĩ sâu sắc để hiểu rõ lời dạy của Đức Sư Tổ qua sự truyền đạt của Thầy Cô. Tôi đã ‘Không còn chút hoài nghi’ về Pháp Môn, với lòng tin ‘Mãi mãi vững chắc’ để đi theo sự dẫn dắt của Tổ hướng tới con đường ‘Xuất trần thoát tục, siêu phàm nhập thánh’. Từ nay sẽ nối gót bậc đàn anh đi trước gia nhập hàng ngũ đi gieo hạt giống tình thương của Pháp Môn để tình thương lan tỏa khắp thế gian !

--------------------------------------

« NHÌN LẠI LỘ TRÌNH TÂM QUA 3 NĂM TU HỌC »

Lương Trọng Sâm - Livy CS Leunglivycsl@gmail.com


Tháng 9 năm 2010, trước khi tham dự khóa học Cấp 4, tôi đã ghi lại quá trình 1 năm tu tập, vì nhận thấy tất cả đều như là sự sắp xếp vô hình, nên đặt tiêu đề bài viết ‘Sự sắp xếp tinh tế’. Hôm nay, 2 năm sau kể từ đó, sau khi hoàn tất lớp học cấp 6, tôi viết lại lộ trình tâm qua 3 năm tu tập. Tôi hiểu rõ đây hoàn toàn là sự sắp xếp của Đức Sư Tổ Dasira Narada đối với chính mình, có thể nói, bài viết này là tiếp theo của bài ‘Sự sắp xếp tinh tế’, ghi nhận ‘Sự sắp xếp tinh tế của Đức Sư Tổ’.


Thiền Đường Bắc Calgary thành lập ngày 01 tháng 07 năm 2009, hai tháng sau, trong một dịp tình cờ, tôi tham gia ‘Vi Diệu Pháp Hành Thiền’, trở thành học viên Khóa đầu tiên, có thể nói tôi trưởng thành đồng thời cùng Thiền đường Bắc Calgary. Thấm thoát đã 3 năm trôi qua, nhìn lại quá trình này, có thể chia làm 3 giai đoạn để thuật lại.


Giai đoạn 1 - ‘Thời kỳ củng cố’: Là khoảng thời gian cấp 2 và 3. Kể từ năm 1984, tôi phiền vì mắc bệnh khó chữa đã 25 năm mà vẫn không giải quyết được. Năm 2009, có một thính giả thường xuyên tham dự ‘Những buổi nói chuyện về văn hóa Trung Hoa hàng tháng’ nói cho tôi biết, bạn ấy đã gia nhập một Pháp Môn học tập được 1 tuần, có thể tự chữa bệnh đồng thời có thể chữa bệnh cho người khác, còn nữa, bệnh gì cũng chữa được. Tôi có cảm giác cứ như câu chuyện ‘thần bí’ về ‘Một người mắc bệnh phong nắm lại tay áo của một vị thánh thì bệnh phong sẽ hết ngay’. Trong lòng tôi nghĩ có phải đây là chiêu trò của tà giáo nào đó dùng để chiêu dụ người ta? Vài tuần sau đó, một người bạn mới quen mà được tôi kính nể nói với tôi, có một hội đoàn tựa tựa như dùng khí công chữa bệnh, vào học thiền miễn phí, bạn nói có thể giúp ích cho sức khỏe của tôi, nếu thấy thích thú thì đi thử.


Trước khi tham gia ‘Trường sinh nhân thể điện’ (tên gọi cũ của ‘Vi Diệu Pháp Hành Thiền’), một người bạn cấp cao trong Pháp Môn trong lúc nói chuyện chơi từng giới thiệu tôi về Pháp Môn này, nói nào là không cần uống thuốc, có thể chữa được trúng gió, bệnh liệt nửa người hay bị ung thư giai đoạn cuối… cũng trị khỏi. Tôi cảm thấy nói chuyện như Phong Thần, tôi ‘Cực kỳ nghi ngờ’, nhưng vì tôi bị bệnh lâu năm, lại học khỏi tốn tiền, tôi ghi danh học với tâm trạng thì cứ thử thử xem sao.


Ngày 14 tháng 9 năm 2009, tôi cùng bà xã tham gia khóa sơ cấp đầu tiên được tổ chức tại Thiền Đường Bắc Calgary của Pháp Môn. Kết thúc khóa học, chúng tôi thực hiện theo sự hướng dẫn của Thầy, hàng ngày ngồi thiền tại nhà, tối vào Thiền Đường phụng sự. Lúc đó, có ‘nhóm 4 người sớm nhất’, đó là Edward, Bob và vợ chồng chúng tôi, 4 người chúng tôi là bạn học cùng khóa, hàng đêm đến thiến đường trước 7 giờ tối, là 4 người đến thiền đường sớm nhất, người mở cửa thiền đường nếu không phải vợ chồng chúng tôi thì là một trong hai bạn còn lại. Hiện nay, Bob vì chuyện nhỏ mà rời khỏi Thiền Đường, ‘Nhóm bốn’ chỉ còn lại 3 người. Hôm nay, ba người chúng tôi có thể hoàn thành giai đoạn học tập của môn sinh ‘Vi Diệu Pháp Hành Thiền’ trong vòng 3 năm, không phải vì chúng tôi thông minh hơn người khác, mà là vì chúng tôi có bước đi tập trung hơn. Ngoài trừ những ngày ra phố, hàng ngày chúng tôi ngồi thiền ở nhà 2 – 3 tiếng, vào những ‘ngày làm việc’ mỗi tối từ 7 – 9 giờ, cho dù những ngày có mưa gió hay không, vẫn có mặt sinh hoạt tại Thiền Đường. ‘Thiền Đường là ngôi trường xây dựng và phát triển tình thương’, chúng tôi được đào tạo như thế. Bây giờ, thấy một số bạn đồng môn trong Thiền Đường vào Pháp Môn chậm chân hơn, nhưng tối nào cũng tích cực tham gia sinh hoạt, trong lòng tôi nghĩ rằng, nếu có dịp giúp họ tự tin hơn, lòng thương của họ nhất định sẽ phát triển nhanh chóng, họ cũng sẽ hoàn thành giai đoạn học tập trong thời gian ngắn.


Lúc đầu, tôi như ‘Con cưng’ (金叵羅, âm hán: Kim-ba-la) trong một đại gia đình, cái gì cũng không biết, nhưng lại được cha mẹ anh chị đùm bọc dạy dỗ. Khi học được 1 số kỷ thuật cơ bản, thỉnh thoảng khi có động tác khéo léo được gia trưởng khen ngợi, rồi vui trong lòng và tỏ ra rất thích thú trong việc học tập. Sau khi hoàn tất lớp học cấp 2, hôm Thứ Hai ngày đầu tiên về Thiền Đường, mới lần đầu đặt bệnh đã gặp trường hợp ‘trượt tay khi đặt lên đầu’, đúng ra phải theo hướng dẫn ‘rút tay về ngay’, nhưng lúc đó tôi nghĩ chuyện đời đâu dễ trùng hợp như thế, chắc tại ảo giác của mình thôi, cho nên tiếp tục đặt bệnh cho đến khi xong việc. Không ngờ, lần này tôi bị ‘trúng trượt’ thật. Sáng hôm sau, trong lúc ngồi thiền thì ho rất dữ dội, 1 tiếng đầu tiên tôi ‘chuyển luân xa’ như thường lệ, 2 tiếng tiếp theo tôi đẩy năng lượng tự chữa bệnh theo phương pháp Thầy đã hướng dẫn, sau 3 tiếng, ho đã giảm bớt dễ chịu hơn nhiều. Ngày tiếp theo, tiếp tục xử theo cách này, cuối cùng đã không còn ho nữa. Chữa bệnh bằng năng lượng quả thật hữu hiệu như thế à? Trong lòng vẫn có chút ‘nửa tin nửa ngờ’, từ đó mỗi ngày tôi ngồi thiền 3 tiếng từ 4 – 7 giờ sáng, trong đó có 2 tiếng dùng để chữa bệnh. Vì có nhiều bệnh khó chữa, trong lúc chữa bệnh tôi không kèm lòng được mà dùng tay đặt vào chổ bệnh, từ từ mò mẫm được phần nào trên cơ thể liên quan đến chỗ ‘đau’ nào, tay đặt vào phần đo sẽ làm dịu ‘chổ đau’. Để mày mò thử nghiệm tính liên quan này, buổi tối về phụng sự tại Thiền Đường, gặp đối tượng có cùng ‘chỗ đau’ hay tương tự, thì đem ra áp dụng, quả nhiên có hiệu nghiệm. Từ đó, tôi lấy thân mình làm ‘nơi làm thực nghiệm’, mò mẫm tìm ‘điểm thích ứng’ để truyền năng lượng. Tôi rất trân quý cơ hội tự chữa bệnh để qua đó nắm bắt bí quyết chữa bệnh, đó là lý do tại sao tôi không bao giờ ngồi xuống để đồng môn giúp chữa bệnh. Còn một lý do chủ yếu khác, khi ấy thiền đường mới thành lập, gặp trường hợp Thầy đi công tác, các đồng môn cấp cao đi xa thì thiếu người. Lúc đó, Phó Trưởng Thiền Đường La sư huynh (羅師兄) từng kêu gọi : ‘Khi đồng môn về Thiền Đường, phục vụ cho khách trước, sau khi phục vụ hết người ngoài mới ngồi xuống để đồng môn giúp mình, chắc chắn chúng tôi sẽ giúp quý vị cho dù phải làm việc đến 11 giờ khuya’. Trong lòng tôi nghĩ : ‘Nếu mỗi tối đến Thiền Đường phụng sự 1 giờ làm việc, rồi ngồi xuống nhờ bạn giúp mình 1 tiếng, nếu lúc đó có 3 đồng môn cùng phục vụ mình, thực tế tôi đã lấy mất 2 giờ làm việc tại Thiền Đường. Nếu tôi không nhờ người khác giúp, ngoài việc tôi có thêm 2 tiếng để phụng sự, cộng thêm 2 tiếng tiết kiệm được, thì mỗi tối Thiền Đường dôi ra giờ làm việc để phục vụ người bệnh, như thế sẽ giúp giảm bớt căng thẳng cho Thiền Đường đang trong thời thiếu nhân sự’. Tôi nói với vợ về suy nghĩ này, đề nghị cô ta khi đến Thiền Đường không nhờ đồng môn giúp đặt bệnh, mà nhân dịp này rèn luyện phương pháp tự chữa, nếu không giải quyết được thì lúc cô ta ngồi thiền buổi sáng tôi sẽ giúp. Bà xã đồng ý, từ đó về sau không nhờ đồng môn đặt bệnh cho mình tại Thiền Đường, tôi giúp bà ta vài buổi sáng, sau đó bà đã quen cách tự chữa, không cần tôi giúp. May thay, dù Thiền Đường bận rộn ra sao cũng chưa từng phải làm việc quá 11 giờ khuya.


Trong khoảng thời gian này, được sự hướng dẫn tỷ mỉ của Thầy dạy vỡ lòng cùng các sư huynh sư tỉ, bất kể lúc ngồi thiền, tự chữa bệnh hay đặt bệnh cho người khác, tôi đều cảm thấy có hiệu quả khá tốt trong mọi phương diện, đôi lúc đặt cho bệnh nhân đạt hiệu quả kỳ diệu bất ngờ, khiến ngay cả bản thân cũng có chút hoài nghi. Thầy dạy vỡ lòng luôn nói: ‘Đồng môn cấp 2 đừng tự cao !’. Đó là vì Thầy e rằng chúng tôi vui quá quên mình mà luân xa bị bít ! Trong bài giảng cấp 2 về cách giữ gìn luân xa, chẳng phải có câu ‘đừng tự cao tự đại’? Lòng thương chan chứa của Thầy đối với môn sinh sao mà chúng tôi không tri ân tận đáy lòng? Mỗi dịp vào ngày kết thúc khóa học cấp 2, Thầy thế nào cũng nói : ‘Đức Sư Tổ quan tâm đặc biệt và rót lực cho môn sinh cấp 2, nên hiệu quả chữa bệnh rất tốt’. Tôi cứ lẩm bẩm câu nói này trong lòng, cảm thấy hiệu quả trị bệnh của một gả mới ra nghề làm gì hơn được sư huynh sư tỉ dày dạn kinh nghiệm và hiểu biết? Đó chẳng qua là câu nói mà Thầy muốn tăng cường lòng tin của môn sinh mới thôi. Bây giờ, qua trải nghiệm bản thân sau khi kiểm chứng, phát hiện câu nói này không chỉ là lời khích lệ suông, mà là sự thật. Tôi đã trải nghiệm, đồng thời đó cũng là sự hiển thị ‘Vi Diệu’ của Pháp Môn. Một ví dụ thực tế về trải nghiệm này: Nhớ vào năm 2012, có một ngày, con gái tôi bị té cầu thang, trật khớp mắt cá chân, sưng đau đi không được, khi ấy vợ tôi đã đi Vancouver, còn mình tôi ở nhà đặt bệnh cho con gái, kết quả hết đau sau 1 ngày, hết sưng sau 3 ngày, 5 ngày sau đi lại bình thường (Ghi chú 1). Tháng 06/2012, con tôi bị thương khớp mắt cá chân do bất cẩn khi đánh cầu lông, cũng bị sưng đau không đi lại được, tôi và vợ tôi đều cấp 5, cùng hợp sức đặt bệnh mất hơn 1 tuần mới khá hơn. Cùng một vị trí bệnh, bệnh trạng tương tự, tôi cộng thêm vợ tôi, 2 người cấp 5 phải mất hơn 1 tuần mới chữa hết bệnh. Còn con gái, lúc đó chúng tôi chỉ mới cấp 2 cấp 3, mà 1 người chỉ mất 3 – 5 ngày thì có thể chữa hết bệnh, điều đó nếu không phải là lực gia trì của Tổ thì giải thích làm sao ?


Trong giai đoạn này, thực tiễn trong việc tự chữa và chữa bệnh cho người khác luôn gặt hái kết quả tốt, khơi dậy ý chí, không ngừng lật quyển bài giảng cấp 2, ‘Danh sách các bệnh và phương pháp trị liệu của người trung cấp’ trong phần trị liệu, mong muốn nắm vững nhiều hơn về kiến thức và kỷ thuật chữa bệnh. Bảng này ghi 84 loại bệnh, người có trí nhớ không tốt như tôi làm sao nhớ hết một lúc cho được? Do đó, gặp nghi vấn lúc đặt bệnh, về đến nhà là tôi tra ngay, lâu dần bài giảng thành những ‘trang sách sống’. Đôi lúc, tra sách cũng còn chưa hiểu rõ, thì gặp riêng Phó Trưởng Thiền Đường Ông Lo nhờ chỉ dạy thêm. Ông Lo là người khiêm tốn, thường ngày ít nói, nhưng đối với câu hỏi của tôi, Ông Lo giải thích rất rõ ràng, còn cho tôi đem về những bài giảng khóa trước để tôi tham khảo. Những sách bài giảng này khác với cuốn tôi có, nội dung phong phú hơn, có hình minh họa, rất tiếc là bằng tiếng Việt, tôi không đọc được. Có một bạn người Hoa, hồi xưa có theo Pháp Môn, nhưng luân xa đã bị bít, nên tôi nhờ bạn giải thích, tôi vừa ghi chép, vừa mong muốn có thể dịch nội dung bài giảng tiếng Việt ra tiếng Hoa, mặt khác muốn khơi dậy sự thích thú của bạn để anh ta về lại Pháp Môn. Rất tiếc, cả hai nguyện vọng đều thất bại, ‘Bản dịch’ đến nay vẫn còn rời rạc, câu bất thành văn. Sư tỉ Maria dạy tôi nhiều lắm, ảnh hưởng đối với tôi rất lớn. Khi cùng đặt bệnh, Chị ta chỉ dạy tôi rất tỷ mỉ, dạy tôi không được dùng sức để bóp khi truyền năng lượng, cũng thường hay khen tôi khiến tôi càng học càng vui thích. Lúc Thiền Đường mới thành lập, người bệnh không đông, thường làm được một tua, đến tua thứ hai thì không còn đối tượng phục vụ. Mã sư huynh (馬師兄) thường nói đùa : ‘Anh bị thất nghiệp rồi, có thể đi lãnh tiền trợ cấp thất nghiệp đấy’.


Học cùng khóa chúng tôi có một cụ già hơn 80 tuổi là Mạch bà bà (麥婆婆). Cụ có nhiều bệnh người già, mắt kém, nghe có vấn đề, đau nhức mỏi lưng, lại bị trượt té lúc ngồi thiền, đau mông không ngồi lâu được. Sau khi chúng tôi đặt bệnh phần tai mắt cho cụ, sư tỉ Maria dìu cụ lên giường bệnh để đặt phần lưng và xương chậu. Tôi vào đặt giúp theo sự hướng dẫn của sư tỉ, giúp được vài lần, Mã sư huynh nói đùa : ‘Theo quy định, chúng ta chưa tới cấp 5 nên không được đặt bệnh trên giường bệnh, anh mới cấp 2 thì đã làm được, giỏi thật’. Tuy chỉ nói đùa, để tuân thủ nội qui, từ đó về sau, cho đến khi tôi đã lên cấp 4 vẫn không dám đặt bệnh trên giường bệnh nữa ngoại trừ cụ Mạch. Nhớ lại khi xưa, giường bệnh chỉ dùng cho việc ‘tác động cột sống’, những trường hợp khác rất ít sử dụng, ‘tác động cột sống’ là một phương pháp điều trị có qui trình phức tạp, phải lên cấp 5, Thầy Chưởng Môn mới chỉ dạy. Nhớ có 1 lần, vài sư tỉ mới học xong cấp 5 về, Thầy Tần Diệp (秦師父) đặc biệt triệu tập họ đến giường bệnh, hướng dẫn họ cách thức chữa trị bằng ‘Phương pháp tác động cột sống’, đồng môn cấp 4 như chúng tôi không dám đến gần để ‘tám’!


Nghĩ về năm đó, chúng tôi thường xuyên học hỏi, trao đổi lẫn nhau với các bạn đồng môn cùng khóa, có Kara, Ngọc Anh (玉英), Chí Văn (志文), Bob…. Một năm sau Bob rời Thiền Đường, Ngọc Anh và Chí Văn cũng đã lâu rồi không thấy có mặt, hiện nay chỉ còn một mình Kara. Thật có chút thổn thức! Trong giai đoạn này, sau quá trình thực tiễn hàng đêm, thường phải lật sách bài giảng, cộng thêm sự hướng dẫn của Thầy dạy vỡ lòng, các sư huynh sư tỉ, trao đổi ý kiến với các bạn học cùng khóa, mò mẫm trong lúc tự chữa bệnh, tôi không những có kiến thức và bí quyết về cách chăm sóc sức khỏe, mà còn có những hiểu biết sâu sắc tạo dựng một nền móng vững chắc. Đồng thời, trong giai đoạn này, đồng môn đã cho tôi những tình thương ấm áp khiến tôi ghi nhớ suốt đời khó quên !


Giai đoạn 2 - ‘Thời kỳ thử thách tu thân’: Bắt đầu từ lúc hoàn tất khóa cấp 4.

Ở giai đoạn này, luân xa được Thầy Cô Chưởng Môn mở lớn đạt mức 60%. Cũng giống như sinh viên ngành y, sau khi học xong phần lý thuyết, phải đến bệnh viện làm bác sĩ thực tập để rèn luyện qua môi trường thực tế.


Năm 2010, hai tháng sau khi hoàn tất khóa cấp 4, tôi được Tổ sắp đặt đi theo Thầy Tần Diệp để hành pháp ở bên ngoài, đây là một trải nghiệm vô cùng quý báu. Tháng 2 năm nay, khi đến thăm Thiền Đường Nha Trang, Thầy Chưởng Môn giới thiệu tôi với mọi người, nói là môn sinh cấp cao của pháp môn, là hộ pháp của Thầy Tần Diệp, bảo vệ Thầy Tần Diệp. Nói ra thật xấu hổ, Thầy Tần Diệp công đức rất dày, đâu có cần tôi bảo vệ ? Tôi là người mới học, ít công đức, có tài nào đức nào mà bảo vệ Thầy Tần Diệp? Nói thật, đi theo Thầy Tần Diệp, thì nên ‘đi thì theo sau, đứng thì bên cạnh’ làm người tùy tùng thôi!


Tháng 11 năm 2010, trong một lần theo Thầy đi hành pháp, đã học được một bài học đầu tiên tại Kuala Lumpur. Năm đó, muốn mở lớp cấp 3, cấp 4, cấp 1 và 2 tại Kuala Lumpur. Cấp 3 có 1 học viên đến từ Đài Loan, hoàn toàn không biết nghe tiếng Quảng Đông, cần người thông dịch tiếng Phổ Thông, lập tức tôi ‘tạm bị kéo’ làm thông dịch viên. Trong lòng tôi nghĩ, tiếng Quảng Đông và tiếng Phổ Thông cũng là tiếng Trung Quốc, chỉ khác chút ít, thường ngày bạn bè gặp nhau ngồi tán gẫu, gặp trường hợp ‘Nam Bắc ráp mặt’, tôi nghe một câu thông dịch một câu, chẳng khó chút nào, chỉ cần dịch thẳng ‘nguyên câu’, không pha trộn ý kiến của mình, không ‘dịch quá’ thì được rồi, cho nên tôi nhận lời. Vào lớp, có 3 thính giả. Vì đây là ‘Nói chuyện chuyên đề’, khác với tán gẫu, lúc gặp từ chuyên môn, hơi căng thẳng một tí là thời gian đã trôi quan, thế thì bị ‘dịch sót’. Nếu nội dung Thầy nói khác với sự hiểu biết của mình, hơi do dự một tí, thì cũng dễ bị ‘dịch sót’. Sau khi thông dịch xong, hỏi 3 vị thính giả có chổ nào chưa rõ, có thắc mắc gì không, họ đều trả lời nghe hiểu rõ, không vấn đề gì, tôi tự nhận xét hiệu quả chỉ đạt khoảng bảy phần. Tiếp theo, lớp cấp 4 có người ngoài tỉnh, tôi tự nhiên được ‘trưng dụng’ làm thông dịch, tôi biết đây là việc khó cáng đáng, nhưng nếu từ chối, thì có chút như là làm bộ. Bài học cấp 4 vừa nhiều vừa phức tạp, mình mới xong cấp 4 chỉ hơn 2 tháng, nội dung chưa hiểu rõ, lại dịch gián tiếp từ tiếng thứ hai (tiếng Việt; tiếng Quảng Đông; tiếng Phổ Thông), thông dịch như thế rất vất vả. Nếu dịch từ tiếng Việt ra tiếng Quảng Đông còn 8 phần, thì khi tôi từ lại từ tiếng Quảng Đông ra tiếng Phổ Thông hiệu quả tối đa chỉ còn 4 phần, kết quả sẽ còn lại 3 phần. Mấy hôm đó, những người qua nghe tiếng Phổ Thông càng ngày càng đông, tuy mọi người nói nghe hiểu rất rõ, nhưng tôi biết rằng đó là lời xã giao khách sáo. Vì những gì tôi dịch, bản thân cũng nhận thấy rời rạc, chưa lý tưởng. Điều chưa nói đến nữa là, nguyên tắc trong phiên dịch là ‘Tín’ (trung thực với bản gốc), ‘Đạt’ (lưu loát), ‘Nhã’ (diễn đạt tao nhã) tôi còn chưa đạt, nguyên tắc tối thiểu về ‘Tín’ cũng chưa đạt, việc lưu loát và diễn đạt tao nhã lại càng miễn bàn, tôi tự đánh giá là ‘không biết mình nói cái gì’. Lúc đó, có một phụ nữ lớn tuổi đến nghe tiếng Phổ Thông, còn ở nhà pha riêng một ly trà sâm mang đến cho tôi uống, tôi thật sự cảm thấy thẹn lòng khi được thương mến như thế.


Chúng ta không biết được cái khó đối với việc ta chưa từng trải, qua lần kinh nghiệm này tôi nhận thấy việc nhìn sơ tưởng dễ, nhưng đằng sau sự việc có nhiều tri thức. Cái khó của việc thông dịch tức thời không phải vì sự khác biệt về kết cấu của hai ngôn ngữ, mà sự thông suốt đối với nội dung của chủ đề cũng là một nhân tố then chốt. Khác biệt về kết cấu ngữ pháp giữa Tiếng Việt và tiếng Hoa là nguyên nhân gây nên khó khăn lớn trong thông dịch tức thời, điều này ai cũng rõ, không cần nói thêm. Sự sai biệt giữa hai tiếng địa phương Tiếng Quảng Đông và tiếng Phổ Thông thì không nhiều, sở dĩ kết quả tôi dịch ra không cao, là vì tôi chưa hiểu rõ về nội dung của chủ đề, tôi nhận ra ‘ôn bài ngay tại lớp’ có tầm quan trọng để có sự hiểu biết sâu sắc về nghĩa bài giảng. Từ đó về sau, khi tham gia mở lớp, mặc dù là lớp cơ bản cấp 1 và 2, hay lớp trung cấp cấp 3, tôi đều chăm chú lắng nghe, luôn luôn vừa nghe vừa dịch thầm trong lòng, nếu lúc đó có nhiệm vụ khác, không tiện dịch thầm thì tôi ghi âm lại, về nhà mở ra nghe và dịch thử để tăng thêm sự hiểu biết của tôi đối với bài giảng. Nội dung bài giảng cấp 4 rất khó, đó là điều không cần phải nói nữa.


Các lớp cấp 1 và 2, cấp 3 mở tại thiền đường Calgary, mỗi cấp tương ứng tôi tham dự 6 lần. Tôi đi theo Thầy dạy vỡ lòng ra ngoài hành pháp, phụ lớp cấp 1 và 2, cấp 3, trước sau đã tham dự 7 lần cho mỗi cấp tương ứng. Cũng có nghĩa là, do có dịp ra ngoài hành pháp, tôi đã có cơ hội ôn bài cấp 1 và 2, cấp 3, mỗi cấp 13 lần, vô hình trung số lần được nhân đôi, nhưng quý nhất là có 2 cơ hội để ôn bài giảng cấp 4, đó là cơ hội rất khó mà có được. Hiệu quả nghe đi nghe lại cùng 1 đĩa CD khó mà sánh bằng ‘Ôn bài ngay tại lớp’.


Theo Thầy ra ngoài hành pháp còn có một thu hoạch khác nữa, đó là có dịp thăm Thiền Đường các nơi (trước sau tôi đã đi được 16 Thiền Đường), biết được tình hình và cách sinh hoạt của từng Thiền Đường, đồng thời có nhận thức về qui luật hoạt động và sự linh động trong giải quyết công việc trong nội bộ Pháp Môn. Đồng thời, đôi khi giúp chữa bệnh tại các Thiền Đường khác nhau có thể gặp một số tình trạng sức khỏe hiếm thấy, đó là lúc thử thách tài trí ứng xử trường hợp trước mắt, nếu gặp trường hợp hơi bó tay, tôi còn có thể theo Thầy Tần Diệp để ‘thực tập cạnh Thầy’, đó cũng chính là những dịp may hiếm có.


Hai năm qua, tôi theo Thầy đi hành pháp, mỗi lần ra đi khí sắc đều rất tốt, bạn bè nơi sở tại đều khen tôi ‘Da mặt hồng hào, tinh thần phấn khởi’, tuy nhiên mỗi khi đi thì sức khỏe đều có vấn đề. Lần đầu tiên theo Thầy Tần Diệp đi Hồng Kông hành pháp, ngày thứ ba tôi tự nhiên bị ho, mà ho rất dữ dội, Thầy Tần Diệp thấy thế cũng đau lòng, đặt bệnh cho tôi tại nơi ở, Sang ngày hôm sau, Thầy hỏi tôi cần giúp bệnh nữa không, lòng tôi vô cùng cảm kích sự quan tâm của Thầy, nhưng nghĩ đến Thầy còn phải giảng vài ngày tại Hồng Kông, đồng thời phải mở luân xa, rồi lại qua Kuala Lumpur dạy và mở luân xa cho lớp cấp 3, cấp 1 và 2, còn phải thông dịch toàn bộ bài giảng cấp 4 trong suốt 3 ngày liền, tinh thần và thể lực sẽ rất mệt nhọc, nên không muốn Thầy ‘hao điện’ vì tôi, tôi từ chối khéo lòng tốt của Thầy. May là tôi chỉ bị ho khi về nơi ở, ho ngay trước khi ngủ và lúc thiền vào buổi sáng, buổi chiều đặt bệnh tại Thiền Đường và phụ lớp vào buổi tối đều không hề gì, không ảnh hưởng đến nhận xét của học viên mới đối với Pháp Môn mình. Qua vài lần tự chữa, bệnh ho của tôi đã hết trước khi rời Hồng Kông.


Trạm kế tiếp của hành trình này là ở lại Kuala Lumpur 2 tuần, mọi việc bình an suông sẽ, đến ngày thứ Bảy cuối cùng, tôi đột nhiên bị đau bụng, hôm đó sau khi kết thúc lớp cấp 2, buổi chiều Thầy Tần Diệp giải đáp thắc mắc cho đồng môn, trong 3 tiếng ngắn ngủi, tôi ra ngoài 6 – 7 lần. May là sau đó ra sân bay, lên máy bay, đổi chuyến bay, cho đến khi về Calgary, tôi đều bình an vô sự. Ngồi máy bay trên chuyền đi về, Thầy Tần Diệp nói với tôi : ‘Cô Chưởng Môn thường nói, ra ngoài hành pháp, đôi lúc gặp phải sự thử thách’. Nhưng mỗi lần tôi đi hành pháp, mỗi lần cũng bị khảo đảo, mà càng về sau, thử thách càng lớn.


Tháng 8, tháng 9 năm 2011, đi Kuala Lumpur và Hong Kong hành pháp trong 2 tuần đều bình an vô sự, cá nhân tôi vì việc riêng ở lại Hồng Kông đến cuối tháng 10 mới trở về Calgary, nghĩ rằng hành trình này chắc không bị ‘khảo đảo’, không ngờ đến đầu tháng 11, tôi bị trượt té cầu thang ở nhà, bị thương dây chằng gối chân phải, đùi chân phải thì bó nẹp bảo vệ, đi bộ phải dùng cặp nạng. Hàng ngày, khi ngồi thiền tôi đều tự chữa bệnh như thường lệ, 2 tuần sau không cần cây nạng, còn nẹp bảo vệ khoảng hơn 2 tháng mới tháo bỏ được, nhưng dây chằng vẫn chưa hồi phục.


Tháng 2 năm 2013, đi Campuchia hành pháp, ngày thứ 2 của lớp Cấp 4 vào chiều Thứ Bảy, tôi bị ‘tiêu chảy dữ dội’, cái gọi là ‘tiêu chảy dữ dội’ không phải nhiều về lượng, mà là nhiều về số lần đi ngoài, số lần rất dồn dập, mới đi được một chút, đứng dậy không tới 5 phút lại đi tiếp, kể như thường trú tại nhà vệ sinh suốt buổi chiều, trở thành ‘Trưởng đặc phái viên’. Tôi nghĩ trong lòng rằng : ‘Thứ Hai tới, cả đoàn phải ngồi xe du lịch 12 tiếng đi Việt Nam, làm sao chịu nỗi?’. May mắn là sau nhiều lần tự chữa, Chủ Nhật đã bớt nhiều, tôi có thể phụ lớp lúc học viên được khai mở luân xa, không làm bể kế hoạch. Thứ Hai lên đường đi Việt Nam một cách suông sẽ, không bị ngượng trong suốt hành trình. Mấy ngày sau đó, đi theo Thầy Chưởng Môn trong chuyến thăm miền Nam Việt Nam, tôi may mắn bình an vô sự. Trong chuyến đi này, ngoài chặng Campuchia bị thử thách, còn các chặng tiếp theo là Việt Nam, Kuala Lumpur, Hồng Kông, cho đến giữa thàng 3 về Calgary, tất cả đều ‘sóng yên biển lặng’ trong suốt đường đi. Đau chân cũng hồi phục khoảng 9 phần, tuy nhiên nếu thời tiết ẩm thấp, thì khi co duỗi chân khớp gối hoạt động không được nhanh nhẹn.


Tháng 5, theo Thầy Tần Diệp đi hành pháp tại Thiền Đường San Francisco, tiện đường ghé thăm 2 Thiền Đường lân cận. Khóa học 7 ngày, ngoài ra ở lại thêm 2 – 3 ngày để hướng dẫn đồng môn nơi sở tại kỷ thuật đặt bệnh, tôi có dịp nghe Thầy hướng dẫn làm mẫu tại chổ một số kỷ thuật đặt bệnh đặc biệt, cũng học được khá nhiều bài. Hành trình 10 ngày này trôi qua một cách bình yên, sức khỏe không vấn đề gì. Sau khi về Calgary, gặp đợt kiểm tra sức khỏe, bác sĩ nói bụng tôi bị ứ nước, bụng căng có cảm giác đau, hai chân bị sưng phù. Bác sĩ nói do cơ thể hấp thu quá nhiều ‘Natri’ (muối Natri), hỏi tôi có dùng nước tương hay không? Tôi thầm nghĩ, người Trung Quốc nấu ăn có lý do gì mà không dùng nước tương? Sau này tôi mới sáng ra, thì ra 10 ngày ở San Francisco, ngày nào tôi cũng ăn ‘Mì xào xì dầu’, quả là chuyện bất ngờ! Bác sĩ kê thuốc ‘lợi tiểu’ (去水丸) cho tôi, sau khi uống đi vệ sinh nhiều, nhưng lại bị bón, lại phải mất công để tự chữa nữa. Con trai tôi thấy tình hình của tôi, quan tâm hỏi rằng: ‘Ba à ! Ba đi lần nào cũng nếu không bị đau bụng thì bị bón, hay bị gì gì đó, hay là Ba đừng đi nữa!’. Con trai tôi là người mê cổ phiếu, tôi nửa đùa nửa thật nói với con : « Bón chỉ cần rặn nhẹ thì ‘xả hết hàng tồn’ ngay, còn ‘đau bụng’ thì sờ nhẹ một cái là ‘bình ổn’ ngay mà, đâu phải chuyện to tát gì ?»


Trong giai đoạn này, sức khỏe hay có vấn đề, đều phải dựa vào bản thân tự chữa, nhưng mà hồi phục rất nhanh. Lúc tình trạng sức khỏe của mình có vấn đề, thì có rất nhiều người có bệnh trạng tương tự đến nhờ tôi chữa trị, do đó tôi ứng dụng ‘điểm thích ứng’ mày mò được trên thân mình và phương pháp sử dụng lúc tự chữa để đặt bệnh cho họ. Đôi khi, lúc chữa bệnh cho họ, tôi có cảm ứng trên bộ phận tương ứng hay các bộ phận khác trên cơ thể mình, khi đó tôi đặt vào bộ phận tương ứng truyền năng lượng cho họ, thường nhận được hiệu quả bất ngờ, tôi cố gắng phát huy hiệu suất của ‘nơ làm thực nghiệm’. Vì vậy, mỗi khi sức khỏe có vấn đề sau khi hành pháp, tôi không cho rằng mình bị bệnh, mà nghĩ Tổ đang ‘khảo việc tu thân’ của tôi, để mà có thể nắm vững kỹ thuật chữa trị trong giai đoạn tu thân, nhưng tôi nghĩ rằng giai đoạn này chưa kết thúc mà còn đang tiếp tục.


Giai đoạn 3 - ‘Giai đoạn thử thách tu tâm’: giai đoạn này bắt đầu từ lúc kết thúc khóa học cấp 5. Tại lớp cấp 5, Thầy Cô Chưởng Môn đã mở tất cả 14 luân xa cho môn sinh, mở đến mức độ 100%. Khi ngồi thiền không cần quan tâm việc đẩy năng lượng, nó được hít vô từ trán, tự động lan tỏa khắp cơ thể và tứ chi. Hai tuần lễ nay lại càng kỳ lạ, cho dù lúc ngồi thiền hay lúc ngủ, chỉ cần nhắm mắt lại là năng lượng tự động tràn đầy khắp mọi tế bào trong cơ thể. Khi truyền đạt lời dạy của Đức Sư Tổ, Cô Chưởng Môn từng dạy : ‘tăng thời gian thiền định, trụ trong chánh pháp để phát Huệ, hầu thấy được chân lý’ (Ghi chú 2). Có lẽ vì trong giai đoạn này chúng ta không cần quan tâm đến hướng đi của năng lượng, trí óc bắt đầu hoạt động, bắt đầu suy nghĩ.


Khi ngồi thiền, tôi từng suy nghĩ nhiều vấn đề, ví dụ: Ngày cuối cùng khóa học Cấp 2, tại sao Thầy luôn nói rằng ‘Kể từ hôm nay, Tổ cho quý vị hai đặC quyền, một là từ nay quý vị có thể tự chữa bệnh cho bản thân, đồng thời có thể chữa cho người khác. Hai là từ nay các bạn «có quyền không giận người khác», vì một khi giận người khác thì luân xa sẽ có thể bị bít.’ Tôi nhận thấy câu nói này rất lạ, ‘giận người khác’ chẳng phải là sự trút hết nỗi lòng mà lại là quyền lợi hay sao? Đã nói ‘giận người khác thì luân xa sẽ có thể bị bít’, thì phải nói ‘không có quyền giận người khác’ mới phải chứ? Qua suy xét tỉ mỉ, tôi từ từ ngộ được ẩn ý sâu xa của câu nói này.


Thầy Cô Chưởng môn thường nói, mục đích chính của Pháp Môn mình là tu tâm, trị bệnh chỉ là quá trình trong tu tập. Nếu đến Pháp Môn với mục đích chữa bệnh, chi bằng đi học ngành y thì thực tế hơn. Vào Pháp Môn chỉ vì mục đích để trị bệnh, thì học đến cấp 3 là đủ rồi, không cần lên cấp 4, cấp 5, cấp 6. Chúng ta học lên cấp cao thì phải tu tâm, phải phát triển trí tuệ, phải làm công đức, phải ứng dụng những hiểu biết học được vào đời sống thực tế.


Mỗi buổi chiều hôm kết thúc khóa học cấp cao, mọi người không cần ăn chay nữa, Ban Tổ Chức thường chuẩn bị những món mặn thịnh soạn để tiếp đãi mọi người. Hôm kết thúc khóa học cấp 5 của chúng tôi cũng không ngoại lệ. Nhưng kể từ hôm đó, tôi không muốn ăn thịt, sức ăn cũng giảm. Sau đó, tôi theo Thầy Tần Diệp đi Kuala Lumpur hành pháp, chủ quán nước sở tại thường cũng tiếp đãi chúng tôi những bữa ăn thịnh soạn, nhìn mọi người thỏa thích ăn uống ngon miệng, tôi cảm giác như cũng đang ăn bữa thịnh soạn đặc sắc, nhưng không có thèm thịt, vẫn chọn ăn món chay. Tháng 2 năm nay, trong ‘chuyến đi Việt Nam’, khi tôi theo Thầy Chưởng Môn thăm các Thiền Đường miền Nam Việt Nam, lúc ngồi trên xe, Thầy Chưởng Môn hỏi tôi tại sao không ăn thịt ? Lúc đó, tôi không muốn nói dài dòng, nói khác người để lấy lòng, nên chỉ trả lời đơn giản : ‘Tôi không ăn thịt, không lý do gì, chẳng qua không muốn ăn thịt thôi.’


Con người nói chung thường xem nặng việc ‘ăn’, và là niềm hưởng thụ lớn nhất của đời sống. Có người nghĩ rằng mình chỉ cần có khả năng trả tiền thì không những phải ăn no, phải ăn nhiều, mà còn đòi hỏi phải ăn đặc sắc, ăn ngon, thậm chí còn phải ăn có đẳng cấp, phải bày vẽ, phải có sĩ diện. Như thế thì, ăn hơi quá đáng, ăn lãng phí, ăn không bảo vệ môi sinh. Họ nghĩ chỉ cần mình trả tiền nổi, thì muốn ăn sao cứ ăn như thế, đó là việc của mình, không ảnh hưởng người khác. Thật ra không phải vậy, cách ăn như thế của họ, là gián tiếp hại người khác, đồng thời cũng hại mình.

Nhân số thế giới đang bành trướng, lương thực ngày càng không đủ, lương thực vốn đã cung không đủ cầu do sự lãng phí quá mức, điều này khiến giá lương thực tăng cao, tại một số các nước kinh tế lạc hậu và các khu vực nghèo khổ có người thiếu lương thực, có người phải chết đói vì không gánh vác nổi cái ‘ăn’ cơ bản nhất để duy trì cuộc sống. Nếu ai ai cũng có thể ‘tiết kiệm’ đôi chút trong phương diện lãng phí lương thực, thì giá lương thực sẽ mềm hơn, có thể số người chết đói sẽ giảm một chút, đó là cứu người. Hơn thế nữa, vì lương thực thế giới không đủ, nhà khoa học tìm cách rút ngắn chu kỳ sinh trưởng của lương thực, gia tăng sản lượng lương thực, nào là phân bón hóa học, nông dược, thuốc sát trùng, kích thích tố, chất kích thích tăng trưởng, biến đổi gien v.v… mọi phương pháp đều được bày ra. Đúng vậy, dù sản lượng lương thực có thuộc tính động vật hay thực vật đều gia tăng, con người trong nền kinh tế phát triển tuy kham nổi giá cao chót vót của lương thực, nhưng vì lãng phí, phung phí của trời mà phải chịu ác báo. Những ‘phương pháp khoa học’ để tăng sản lượng đều bất lợi cho cơ thể con người, vì khiến lương thực hàm chứa những độc tố khác nhau, có thể mang lại những bệnh lạ cho con người, thực phẩm mình ăn nhiều, ăn không hạn chế, chẳng khác nào dùng chất ma túy. Trên phương diện ‘ăn’, nếu chúng ta không bày vẽ, không đòi hỏi đặc sắc, không ăn nhiều, chỉ cần ‘đủ’ để duy trì sư sống, thì không những chúng ta không lãng phí, không phá hoại cân bằng sinh thái, cũng giảm bớt không ít những bệnh quái đản, như thế là cứu mình. Thông thường, người ta nói không ăn thịt tức là ‘ăn chay’, ‘ăn chay’ không sát sanh tức là tu hành. Thực ra, không ăn thịt không được cho là tu hành, bò dê nai ngựa ‘ăn chay’ suốt đời, nhưng chưa nghe qua bò dê nai ngựa thành Tiên thành Phật. Các vị cao tăng Phật Giáo Trung Quốc không ăn thịt, đó là một phần của quá trình tu hành, họ còn phải sáng suốt ngộ pháp. ‘Tu ngộ’ chứng đắc chân lý, sau đó đem ra ‘thực hành’, như thế mới là ‘tu’ ‘hành’. Cứ ăn chay không sát sanh mà lại không ‘tu hành’, thì cũng giống như bò dê nai ngựa, nếu như miệng thì tụng kinh nhưng mà lại không tư duy chân lý, cũng giống như con vẹt trong chùa, cũng không đắc đạo.


Vạn vật đều có linh hồn, hạt bụi cát đá, núi sông biển cả, cây cỏ, con sâu, con cá, chim thú và con người đều có linh hồn. Linh hồn bất lợi cho con người, người ta gọi là ‘yêu’, là ‘tinh’, là ‘ma’, là ‘quái’, là ‘sát’ (hung thần). Linh hồn có lợi cho con người, người ta gọi là ‘thần’, là ‘tiên’, là ‘thánh’. Có linh hồn thì có sanh có diệt, có sanh diệt thì có tiến hóa. Các linh hồn qua quá trình tiến hóa khác nhau mà trở thành con người, ‘thánh’ có nghĩa là đạt cảnh giới chí thiện chí mỹ. Con người còn sống mà đạt được cảnh giới chí thiện chí mỹ thì được gọi là ‘thánh nhân’, tiến hóa trở về cõi trời, đó là ‘thánh linh’. Đã nói vạn vật đều có linh hồn, có sanh có diệt, tôi không ăn thịt, không có nghĩa là không sát sanh, tôi tuy ăn chay nhưng vẫn sát sanh.

Sói, cọp, beo, sư tử ăn thịt, nhiệm vụ là duy trì cân bằng sinh thái tự nhiên. Tập quán con sư tử là cứ đói mới đi kiếm mồi, khi no rồi, cho dù có động vật nhỏ đi ngang qua cũng chẳng chút quan tâm, đó là ‘vương đạo’, nên được gọi là ‘Chúa tể sơn lâm’. Sài (con sài) sói, cọp, beo có tập quán là, lúc đói thì đương nhiên đi săn mồi, nhưng khi no rồi, thấy động vật nhỏ đi ngang qua, dù đã no mà vấn săn giết, xé xác, đó là ‘ngang ngược’, nên được cho là ‘hung tàn’. Tục ngữ có câu : ‘Nhơn dĩ thực vi thiên’, ‘thiên’ (trời) có nghĩa là ‘lớn nhất’ ‘quan trọng nhất’, tức là ‘đối với con người ăn là việc lớn nhất, quan trọng nhất’. Cái ‘ăn’ này ý nói cái ‘ăn’ cơ bản nhất để duy trì sự sống. Thời nay, cái ‘ăn’ mà con người trong nền kinh tế phát triển đòi hỏi lại vượt quá xa phạm vi cơ bản này, gây nên sự phung phí lương thực, không bảo vệ môi trường, phá hoại cân bằng sinh thái, như thế có khác nào sài, sói, cọp, beo?


Thầy Cô Chưởng Môn từng nói: ‘Ngồi thiền nhiều, có thể ăn ít một chút, ngủ ít một chút’. Có người giải thích rằng : Ngồi thiền có thể thay thế ăn cơm, có thể thay thế ngủ’. Đây là một sự hiểu lầm dễ thương. Ngồi thiền không thể thay thế ăn cơm, cũng không thể thay thế ngủ. Trong lúc ngồi thiền, chúng ta có thể ngộ được rằng, trước đây mình ăn nhiều quá, thường bệnh vì ăn mà gây ra, tự nhiên mình cần phải ăn bớt lại. Chúng ta ngộ ra rằng, trước đây tham ngủ thích ngủ nướng, lãng phí thời gian, càng ngủ càng mệt mõi, mình tự nhiên sẽ bớt thời gian ngủ. Tôi ăn không nhiều, chỉ cần vừa đủ, món ăn không cần cầu kỳ, đủ dinh dưỡng thì được, nửa năm qua, nhận thấy sức khỏe không kém hơn trước, sức khỏe không yếu hơn xưa. Ba năm qua, vì phải làm việc chuẩn bị tài liệu giáo án, các buổi nói chuyện, viết các bài báo chuyên đề v.v…, thường phải 11 – 12 giờ khuya mới lên giường, sáng thức dậy lúc 4 – 5 giờ, ngồi thiền 3 tiếng, lâu ngày thành thói quen. Cũng giống như đánh răng súc miệng là một việc làm hàng ngày, mỗi ngày ngủ 4 – 5 tiếng. Vì thiền nhiều nên chất lượng giấc ngủ tốt, ban ngày không phải vì thời gian ngủ ít mà cảm thấy buồn ngủ, thời gian tiết kiệm được dùng để phụng sự chúng sanh, bố thí nhiều, làm nhiều công đức thì có lợi cho bản thân, có đóng góp cho xã hội. Do đó, tôi đã thực hiện lời dạy của Thầy Chưởng Môn rồi.


Thầy Cô Chưởng Môn cũng thường dạy, môn sinh Vi Diệu Pháp Hành Thiền nhất thiết phải buông xả ‘Danh, Lợi, Tình’, diệt trừ ‘Tham, Sân, Si’. Trước khi nghe bài giảng cấp 5, câu nói này thường quanh quẩn trong đầu, phải tu như thế nào mới đạt được cảnh giới mà Thầy Chưởng Môn dạy? Tôi từ từ ngộ ra, muốn thật sự đạt đến cảnh giới này thì nhất thiết phải bắt đầu từ quan niệm căn bản, bắt tay từ đời sống hiện thực.


‘Ăn’ là điểm dựa căn bản để sinh tồn. ‘Ở’ vốn là cái gốc để sống yên phận. Ai ai cũng cho rằng ‘ăn’ và ‘ở’ điều kiện cơ bản để sinh tồn, tục ngữ có câu ‘Dân dĩ thực vi thiên’ (Nghĩa : người dân xem cái ăn là quan trọng nhất) mà! Tôi muốn trở về sự giản dị, nên bắt tay từ cái quan trọng nhất trong đời sống là ‘ăn’ và ‘ở’. Tôi muốn hạ điều kiện cơ bản nhất để sinh tồn xuống mức thấp nhất, mọi người thường mong muốn ăn sơn hào mỹ vị, ở nhà sang cửa rộng, tôi không ăn thịt là vì tu hành, thực hiện hành vi ‘thực bất cầu no, cư bất cầu an’, thực hiện tư tưởng ‘bất vụ danh lợi, thanh tâm quả dục’, từ đó mà đạ cảnh giới tâm linh ‘vô dục vô cầu, vô vật vô ngã’. Tôi không ăn thịt, là bước thứ nhất trong thực tiễn tu hình của mình, không vì lý do tôn giáo, không gò bó hạn chế bởi khuôn khổ qui định, không có sức ép tâm lý, do đó khi thấy người khác ăn một cách ‘say mê ngon miệng’, tôi cũng không động lòng, vẫn an nhiên bình thản, hay trong hoàn cách không có sự lựa chọn nào khác thì tôi ăn thịt, ăn nhưng không cảm thấy mình phạm tội. Vì mục đích của tôi là trở về cội nguồn, trong miệng ‘không thịt’, trong lòng ‘vô dục’. Cái ‘ăn’ của ‘dân dĩ thực vi thiên’, nếu có thể không đòi hỏi đặc sắc và ăn thật no mà chỉ vừa no là đủ, nếu cái ‘giường’ để dưỡng sức không đòi hỏi hưởng thụ sự thoải mái mà chỉ cần nằm êm là đủ, thản nhiên đối mặt với hai điều kiện cơ bản nhất trong sinh tồn, khát dục về vật chất tiền bạc cũng có thể buông xả, thì tự nhiên ‘thanh tâm, quả dục, đạm danh, bạc lợi’ (Nghĩa : tâm được thanh thản, dục vọng được giảm bớt, đạm bạc với danh lợi).


Sở dĩ con người lòng tham là tâm có dục vọng. Muốn diệt trừ lòng tham, tâm phải thanh tịnh, thanh tâm thì quả dục. Có cái dục thì có cái cầu, dục nhiều thì tham nhiều, tham nhiều thì lòng mong cầu mãnh liệt, quả dục thì tham ít, tham ít thì cầu ít, vô dục thì vô cầu. Có thể ‘thanh tâm quả dục’ thì tự nhiên sẽ không tham, có thể không tham, tự nhiên sẽ không keo kiệt (Ghi chú 3). Nếu diệt trừ được thói quen ‘tham mà còn keo’, thì có thể bố thí, có thể tăng trưởng lòng từ bi, có có xả thân giúp người, phụng sự chúng sanh. ‘Vô dục vô cầu’ về vật chất, thì tự nhiên không tranh không giành. Người xưa có câu : ‘Tâm đủ thì mọi cái thường như có thừa, tâm tham thì mọi cái thường như không đủ.’ Thử nhìn người đời tranh danh đoạt lợi, nhà giàu tuy gia tài có muôn tỷ, nhưng vì lòng tham vô đáy, mong muốn nhiều hơn, suốt ngày bôn ba tần tảo cho đến lao tâm kiệt sức. Khi hai mắt nhắm lại, hai chân duỗi thẳng, đời sau của họ còn bất hòa do tranh giành gia tài, thưa kiện lên tòa, một đại gia đình đầm ấm bị tan nát chia năm xẻ bảy. Người ta từng nói, đồng tiền tội lỗi muôn ngàn, sự thật thì đồng tiền vô tri, cũng không thiện ác, thiện ác do nơi lòng người, là lỗi của cái tham! Các đại phú hào trứ danh trong lịch sử, có mấy ai được ghi danh sử sách, được người đời ca tụng? Có người tham vì chức danh, tranh danh đoạt lợi, ban đầu thì cố tranh giành của cải, có tài sản rồi thì tranh giành quyền thế, tranh danh dự, giành địa vị, giành sĩ diện, mối quan hệ, ‘dục vọng’ không đáy, ‘tranh giành’ không ngừng nghỉ, suốt đời lăn lộn trong ‘Danh, Lợi, Tình’ mà không biết tích đức tu nghiệp. Thử nhìn lại xem từ cổ chí kim, người không đủ tài đức mà cố theo đuổi ‘Danh, Lợi, Tình’, suốt đời bôn ba đi lấy lòng người, nhưng rốt cuộc cũng thân bại danh liệt, thậm chí không ít người bị đẩy vào chốn lao tù. Việc gì cũng xem nặng sỉ diện, quan hệ, thì đôi lúc việc gì không thể làm được hay không xong việc. Ông Vương An Thạch, Đời Nhà Tống Trung Quốc, là người có tài, có lý tưởng, quan tâm lòng dân, vì muốn dân giàu nước mạnh mà phát động ‘Biến Pháp’ (變法, nghĩa cải cách), nội dung ‘Biến Pháp’ tuy hay nhưng rồi cũng thất bại, điểm then chốt của vấn đề ở chỗ ông Vương có cá tính bảo thủ cố chấp, lịch sử phê bình ông là ‘có can đãm chịu trách nhiệm, những lười sửa sai, nói rõ hơn một chút, bảo thủ cố chấp vì ‘sỉ diện’, rõ ràng biết mình sai, nhưng thà chấp nhận hậu quả thất bại chứ không nghe lời khuyên để mà sửa sai. Xem nặng ‘sỉ diện’, không những hại mình mà còn hại người, ông Vương Thạch An là một nhân vật lịch sử điển hình. Trong lịch sử quốc vận Trung Quốc, những vị vua trong triều đại cuối cùng hay thời trung suy, hầu như đầu có một đặc điểm chung, là có tấm lòng nhân hậu, nhưng lại do dự kém quyết đoán. Vì tánh do dự kém quyết đoán, thế này được, thế kia cũng được, nên dễ bị quần thần thao túng. Vì có tấm lòng nhân hậu, mà mãi cứ bảo vệ sỉ diện của quần thần, bán ‘quan hệ’ cho quần thần, xa lánh trung thần có lời khuyên can nói thật, thậm chí còn bức hại đưa họ đi lưu đày, gây nên sự vong quốc. Những kẻ nói sỉ diện, đa số rơi vào hàng cố chấp, không theo dòng chảy hướng thiện, kẻ nói quan hệ, đa số rơi vào hàng yếu đuối, nuông chiều riếc hóa hư, kẻ nặng gia cấp, đa số rơi vào hàng hẹp hòi, tranh quyền đoạt lợi, những hạng này đều không giúp ích cho cho cá nhân, xã hội hay tổ chức. Thử nhìn xem những sĩ phu có tài có đức, họ bất vụ danh lợi, hết lòng vì cộng đồng, nên được đại chúng kính trọng và ca tụng. Khi họ được nhiều người ca tụng, thì tự nhiên có tiếng, khi được nhiều người kính trọng, tự nhiên có địa vị. Không cầu danh như tự nhiên được tiếng, danh thơm muôn thuở, không cầu địa vị nhưng tự nhiên được tôn sùng địa vị, muôn người nể trọng. Tiếng tăm địa vị mà mình cố ý theo đuổi tranh giành là giả tạm, không thể vượt qua sự thử thách, không lâu bền. Cho nên, cái cơ bản nhất để diệt trừ ‘Tham, Sân, Si’ là phải ‘thanh tâm quả dục’, như thế mới đạt được cảnh giới ‘vô dục, vô cầu, vong vật, vong ngã’ (‘vong’ âm Hán, nghĩa : quên, không nhớ).


Con người từ nhỏ tới lớn, cho dù là giáo dục học đường hay giáo dục gia đình cũng vậy, đều muốn họ siêng năng học tập để thi lấy thành tích ưu tú hầu tìm được việc làm chức cao lương hậu để nhanh chóng thăng tiến, rồi giành lấy một địa vị trong xã hội để chen chân vào giới thượng lưu. Thế gian phàm tục có nhiều thói hư tật xấu, con người vì muốn giành được của cải, tiếng tăm, địa vị, quyền thế, thường phải nước chảy bèo trôi chiều ý tập thể. Muốn tu hành, ta lại đi con đường ngược lại, luôn đấu tranh giữa các sự chọn lựa, muốn thoát khỏi khuôn khổ phàm tục và xiềng xích trần thế, chuyện nói lâu phải dễ?


Có một thời kỳ, Thầy đi công tác, khi đặt bệnh tại Thiền Đường, nhiều người lớn tiếng nói chuyện, mấy người trong nhóm cùng đặt bệnh nói với nhau cũng có, nhóm này nói chuyện với nhóm đối diện cũng có, người bệnh nói chuyện với người chữa cũng có, đồng môn không đặt bệnh đi đến gần nhảy vô góp chuyện cũng có, cảnh tượng ‘hòa quyện như một khối’, ‘khoác lác ba hoa’, ‘miệng cười toe toét’, ‘khua chân múa tay’, muôn hình muôn dạng, đề tài gồm ăn uống vui chơi, thú vui mua sắm, thượng vàng hạ cám đề tài nào cũng có, cảnh náo nhiệt không thua gì quán ăn nhà hàng, có xu hướng 4 – 5 người cùng sở thích cố tình qui tụ lại cùng đặt bệnh cho 1 người, với mục đích tiện nói chuyện. Từng có 2 người sức khỏe không tốt, được bạn bè giới thiệu đến thiền đường để được phục vụ, họ nhận thấy ‘như thế mà gọi là chữa bệnh à, sao giống như chuyện giỡn chơi’, đến được 2 ngày thì họ không tới nữa. Tôi từng bày tỏ ý kiến về cảnh tượng ồn ào ảnh hưởng người khác không được tập trung trong đặt bệnh, cũng vì thế mà làm mất lòng người ta, bị cách ly cô lập. Tôi từng tự hỏi: ‘Buổi tối mình đến Thiền Đường để làm gì ?’. Khi ngồi thiền, câu hỏi này cứ trổi dậy trong đầu, suy đi xét lại, tôi từ từ ngộ ra: Mỗi người làm việc đều có mục đích của mình, hoặc là có người đến Thiền Đường có mục đích chính là được thưởng thức món ngon; hoặc người thì sống cô đơn, đến Thiền Đường để tìm bạn nói chuyện; hoặc người thì về Thiền Đường để tìm bạn ăn nhậu vui chơi; hoặc người thì đến Thiền Đường vì có thể góp một phần sức để phục vụ người có nhu cầu, muốn có công đức. Cá nhân thích cái gì? Đó là sự chọn lựa của mỗi người, ‘đậu hủ cải bó xôi, mỗi người mỗi sở thích riêng’, thích đậu hủ cũng được, thích cải bó xôi cũng được, tùy sở thích mỗi người. Điều mà ta gọi là ‘nói cái tốt của người khách, thì hãy nghĩ cái nhân trước đó của họ’. Mình không cần quan tâm sự chọn lựa của người khác, mà cái cần hỏi là : ‘Mình mỗi ngày về Thiền Đường để làm gì?’ Ban đầu, tôi tự cho mình câu trả lời là: Mục đích để phục vụ tha nhân, để giúp những người có nhu cầu giảm bớt đau khổ, để có nhiều công đức’. Sau này, tôi tự bảo mình: ‘Mục đích của tôi là tự mình tu hành, phục vụ tha nhân và gầy dựng nhiều công đức, đó đều chỉ là quá trình tu hành mà thôi.’


Cô Chưởng Môn khi truyền đạt lời dạy của Đức Sư Tổ, từng nói : ‘hành đạo Bồ Tát với chân tâm thì tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, mặc dầu làm nhiều việc nhưng ta không bị việc chi phối. Các môn sinh theo Ngài học làm Bồ Tát phải giữ vững tâm này, đừng bao giờ để vật chi phối. Ở Thiền Đường, đừng để Thiền Đường chi phối; cứu giúp mọi người đừng để mọi người chi phối; nhận trách nhiệm đừng để trách nhiệm chi phối, làm cho ta trở thành không bình thường. Lúc nào cũng giữ tâm mình thanh thản, đó là điều kiện tiên quyết mà các môn sinh phải có’ (Ghi chú 4).

‘Ngồi thiền tập thể, mỗi người tự tu’. Đã nói vì mục đích tu hành, thì phải giữ tâm thanh tịnh, không bị ngoại cảnh chi phối. Người khác nói chuyện trong lúc đặt bệnh, nếu tôi vì muốn lấy lòng người ta mà tham dự vào, đó là tôi là bị ngoại cảnh chi phối. Nếu tôi giống bạn đồng môn vì bất mãn sự ồn ào mà rờ khỏi Thiền Đường, không tiếp tục đến phụng sự, mà thậm chí còn bỏ tu, tôi như thế cũng bị chi phối bởi ngoại cảnh. Nếu tôi có thể giữ tâm thanh tịnh, ‘Thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn’ (Nghĩa : nhìn mà chẳng thấy, nghe mà chẳng theo), do đó tôi thay đổi cách thích ứng với hoàn cảnh, nhưng không thay đổi tôn chỉ ý nghĩ bản thân. Nghĩ vậy, lòng tôi tự nhiên tươi sáng, từ đó về sau, khi tôi đặt bệnh cho người bệnh thì nhắm mắt tịnh tâm, hết lòng chăm chú việc phục vụ, quả nhiên những ồn ào xung quanh đều không còn nghe thấy nũa. Điều kỳ lạ là, khi đó mình muốn nói chuyện, hay muốn nói với đối tượng bệnh nhân, thì họng như bị vật gì làm nghẹn, nói không nên lời. Có thể có người hỏi: ‘Khác người như thế, ông không cảm thấy bị cô độc xa rời tập thể sao?’ Đáp án là: ‘Có ! Chân lý chỉ duy nhất, chí thiện chỉ có một. Tu hành khác với giải trí hữu nghị, không cần người động thế mạnh, việc tu hành xưa nay là việc của cá nhân, muốn đạt được chi chân chí thiện, thì có e sợ gì cô độc?’. Cũng có đáp án : ‘Không có! Có thể cố chấp mà chọn ‘thiện’, kẻ khác nếu có cảm nhận cái này là chân, cái này là thiện, hay bị cảm hóa rồi từ từ nhận ra cái này là chân, cái này là thiện, khi ấy họ tự nhiên sẽ cùng hướng đi của mình, những người này sẽ càng ngày càng đông, lúc đó mình tự nhiên sẽ cảm thấy ‘đường ta đi không đơn độc’ !


Hiện nay, hiện tượng ba hoa khoác lác tại Thiền Đườngcòn ít, mọi thứ từ từ trở về cảnh xưa. Cảnh ‘ồn ào náo nhiệt’ mà trước đây chưa từng phải chăng là sự sắp đặt của Tổ, để ‘thử thách tu tâm’ của tôi ngay tại Thiền Đường? Bài ‘thử thách’ đã trôi qua, có điều phải cám ơn Phó Trưởng Thiền Đường, sư huynh Edward đã đóng vai khách mời giúp tôi vượt qua bài thi này, và cũng nhân dịp này tạ lỗi cùng sư huynh.

Trên đây ghi nhận vài nét về ‘thử thách tu tâm’ của tôi. Thói hư tật xấu của phàm trần thế tục nhiều kể không xiết, người tu hành luôn phải đấu tranh giữa cái muốn nước chảy bèo trôi chiều ý tập thể? Hay là muốn thoát khỏi khuôn khổ phàm tục và xiềng xích trần thế? Tổ khảo xem chúng ta có bền lòng và quyết tâm cố chấp chọn hướng thiện tiếp tục tu hành hay không ? Khảo xem chúng ta có trí tuệ để thực hiện ‘xuất thế’, ‘thoát tục’, ‘siêu phàm’ mà ‘đi vào đạo của thánh nhân’ hay không? Những bài thi ‘thử thách tu tâm’ có thể tiếp tục đến với ta, vì sự sắp đặt của Tổ khó mà đoán trước, thế thì ta cứ tịnh tâm xuôi chiều tự nhiên đón nhận sự khảo đảo !


Lời kết: Rất may mắn được Đức Sư Tổ Dasira Narada dẫn dắt tôi vào Pháp Môn này, cử Thầy có kinh nghiệm nhất, lâu năm nhất để dạy vỡ lòng cho tôi, trực tiếp chỉ dạy chúng tôi, trong suốt quá trình từ lúc bắt đầu cấp 1 và 2 cho đến cấp 6. Thầy Tần Diệp luôn hộ trì, giúp thông dịch giảng dạy, diễn dịch sâu sắc của Thầy giúp chúng tôi nắm vững lời giảng của Thầy Cô Chưởng Môn.


Cám ơn Đức Sư Tổ Dasira Narada sắp đặt cho tôi đi hành pháp theo Thầy Tần Diệp, tạo cơ hội cho tôi được rèn luyện. Thầy Tần Diệp vào pháp môn đã mười mấy năm, theo Thầy Cô Chưởng Môn đi hành pháp ở các nơi, được chân truyền từ Thầy Cô Chưởng Môn, đồng thời Thầy đã nhiều năm thông dịch tiếng Quảng Đông cho Thầy Cô Chưởng Môn, có hiểu biết sâu sắc về nội dung và đạo lý của Pháp Môn, Tổ đã ban ơn sự sắp đặt tốt nhất để đệ tử có dịp may theo Thầy tu học. Hơn hai năm nay, tôi được quan sát thực tế giảng dạy của hai vị Chưởng Môn, ôn lại nội dung đạo lý bài giảng các cấp tại lớp, thực tập tại chổ các kiến thức và kỷ thuật về cách chăm sóc sức khỏe, khảo sát tình hình hoạt động và các đặc điểm từng Thiền Đường, được nhận thức sâu hơn về Pháp Môn, những trải nghiệm này là độc hữu, vô cùng trân quý. Thầy Tần Diệp công đức thâm hậu, hiện nay nhiệm vụ nặng nề của Pháp Môn đã có người thừa nhiệm, từ nay nếu không phải có sự việc trọng đại, Thầy không ‘xuống núi’ ra mặt, muốn lặp lại cơ hội làm ‘người tùy tùng’, e rằng chắc cũng không dễ.


Cám ơn Đức Sư Tổ Dasira Narada sắp đặt cho tôi được thử thách, để mà cả hai phương diện thân tâm của tôi cũng đề được nâng cao. Tôi đã hoàn thành một cách thuận lợi toàn bộ quá trình học tập của môn sinh Vi Diệu Pháp Hành Thiền dưới sự chỉ dạy của Thầy Cô Chưởng Môn, sự dìu dắt của Thầy dạy vỡ lòng. Giai đoạn học trò kết thúc, nhưng không có nghĩa là sự kết thúc của việc học tập, mà phải ứng dụng cái mình đã học vào thực tế cuộc sống, tiếp tục học tập từ thực tiễn.


Cám ơn Thầy Chưởng Môn Nguyễn Đức Thuận, Cô Chưởng Môn Nguyễn Ngọc Hải đã nhiều lần thuyết pháp cho tôi trong 3 năm qua, giải nghĩa giảng đạo lý, làm sáng tỏ yếu chỉ tu tập, phát triển trí tuệ của tôi để chọn lựa con đường phải đi kể từ bây giờ.


Cám ơn sự dìu dắt và chăm sóc tôi của Thầy Tần Diệp trong 3 năm qua, quá trình này giúp ích tôi rất nhiều. Cám ơn sự giúp đỡ và mang đến sự ấm áp cho tôi của các sư huynh sư tỉ tại Thiền Đường Calgary.


Tôi đã để râu hơn 10 năm nay, ngày 23 tháng 9 năm 2012 là một ngày đặc biệt, là ngày tôi thọ ấn môn sinh cấp 6, tôi cạo bỏ râu bạc này để làm kỷ niệm, để dối diện với tương lai bằng một khuôn mới tươi mới. Ba năm qua, tôi mang tâm thái ‘cực kỳ nghi ngờ’ gia nhập pháp môn, hiệu quả tu tập ngoài sự mong đợt ban đầu khiến tôi ‘nửa tin nửa ngờ’, từ sự thử thách qua hai phương diện thân tâm, sự hiểu biết từ suy nghĩ những lời dạy của Tổ qua sự truyền đạt của Thầy Cô Chưởng Môn, tôi đã ‘Không còn chút hoài nghi’ về pháp môn, với lòng tin ‘Mãi mãi vững chắc‘ để đi theo sự dẫn dắt của Tổ hướng tới con đường ‘Xuất trần thoát tục, siêu phàm nhập thánh’. Từ nay sẽ nối gót bậc đàn anh đi trước gia nhập hàng ngũ đi gieo hạt giống tình thương của Pháp Môn để tình thương lan tỏa khắp thế gian!


Lương Trọng Sâm (Livy CS Leung)


Ghi chú (của tác giả):

(1) : xem bài viết cùng tác giả ‘Sự sắp xếp tinh tế’ – Tháng 9/2010.

(2) : Trang 8, ‘Bài giảng Cấp 4’, phiên bản tiếng Hoa năm 2010.

(3) : Trong ý nghĩa tu hành : Muốn sở hữu những gì không thuộc về mình, hoặc lấy được những gì không xứng đáng nhận, gọi là ‘tham’. Những gì thuộc sở hữu của mình, mình có khả năng cho, hoặc nên cho mà mình không cho, gọi là ‘keo’ (điều này khác với cách dùng theo ý nghĩa ‘tiết kiệm’).

(4) : Trang 7 , ‘Bài giảng Cấp 4’, phiên bản tiếng Hoa năm 2010.

 
 

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
bottom of page